Sách Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1
Tác giả : Lý Quang Diệu
Tải sách Miễn Phí
Nội dung sách Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1
Lý Quang Diệu là một nhà lãnh đạo được cả thế giới ngưỡng mộ, người đã biến đất nước Singapore nhỏ bé trở nên thịnh vượng và có vai trò trên trường quốc tế. Người đã để lại một đất nước Singapore với những nguyên lý phát triển cho cả các thế hệ mai sau.
Đọc Hồi Ký Lý Quang Diệu chúng ta sẽ hiểu hơn về những bước đường của đất nước Singapore, những khó khăn thử thách vô cùng lớn lao mà đât nước ông phải gánh chịu. Nhưng đồng thời cũng thấy được tài năng và khả năng lãnh đạo của ông đã giúp đưa đất nước vượt qua khó khăn và vương lên thịnh vượng.
Cả quá trình ông đã đối mặt với những khó khăn và thử thách to lớn. Về chính trị thì đất nước quá nhỏ bé, thiếu đoàn kết và bị trao trả độc lập bất ngờ, phải tự mình tồn tại, ngoài ra còn bị các thể lực chính trị từ Malay và phong trào cộng sản ở Indo luôn đe doạ. Về kinh tế thì rất khó khăn, thiếu nước ngọt, thiếu lựng thực, thiếu nhà ở, thiếu hẳn những điều kiện để phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Còn về xã hội thì đa chủng tộc, đa văn hoá. Nhưng cái nguy hiểm nhất là về quân sự, Singapore luôn luôn bị đe doạ từ các nước láng giềng hùng mạnh như Malay và Indo có nguy cơ xâm lược, rồi sợ cả các nhóm cướp biển tấn công bất ngờ.
Nhưng Lý Quang Diệu là người cứng rắn, có tầm nhìn xa và trí tuệ uyên bác, ông đã lần lượt giải quyết hết các vấn đề và đưa được đất nước Singapore phát triển thịnh vượng trong thập niên 80, 90 của thể kỷ 20, là lúc mà các nước trong khu vực Đông Nam Á chỉ mới bắt đầu phát triển kinh tế.
Chương 1: Đột Nhiên, Độc Lập
Bữa đó cũng như mọi buổi sáng thứ Hai khác ở Singapore cho đến khi nhạc ngưng lại. Lúc 10 giờ sáng, giai điệu nhạc pop trên đài phát thanh bị cắt ngang bất thần. Những thính giả đầy hoang mang nghe người xướng ngôn viên long trọng đọc lời tuyên bố – 90 chữ làm thay đổi cuộc đời của nhân dân Singapore và Malaysia.
“Xét vì quyền đương nhiên của một dân tộc là được tự do và độc lập, tôi, Lee Kuan Yew, Thủ tướng Singapore, thay mặt nhân dân và chính phủ Singapore, xin tuyên bố và khẳng định rằng từ hôm nay, ngày 9/8/1965, Singapore là một quốc gia độc lập, dân chủ và có chủ quyền, được xây dựng trên các nguyên lý về tự do, công bằng và mưu tìm kiếm an sinh và hạnh phúc cho nhân dân trong một xã hội công bằng và bình đẳng hơn.”
Cách hai trăm dặm về phía Bắc, trên bán đảo Malaysia, Tunku Abdul Rahman cũng đang đưa ra lời tuyên bố của ông, xác định rằng: “Singapore sẽ thôi là một bang của Malaysia và sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, tách khỏi và độc lập đối với Malaysia, và chính phủ Malaysia công nhận chính phủ Singapore là chính phủ độc lập và có chủ quyền và sẽ luôn luôn làm việc trong tinh thần hữu nghị và hợp tác với chính phủ đó.”
Chia tách! Điều mà tôi đã đấu tranh gian khổ để giành lấy nay đã được giải quyết. Tại sao? Và tại sao lại bất ngờ như thế? Đảo Singapore mới trở thành một bộ phận của Liên bang Malaysia (vốn bao gồm cả lãnh thổ Sarawak và Sabah trên đảo Borneo) mới được hai năm nay. Lúc 10 giờ sáng cùng ngày, tại Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, Thủ tướng giải thích với quốc hội:
“Sau cùng chúng ta thấy rằng chỉ có hai phương sách cho chúng ta: dùng biện pháp áp chế chính quyền hay các lãnh đạo Singapore vì những hành vi của một số lãnh đạo đó, và phương sách hiện chúng ta đang thực hiện, cắt lìa chính quyền bang Singapore vốn đã thôi không còn bày tỏ lòng trung thành với chính quyền trung ương nữa.”
Hạ viện lắng nghe trong im lặng hoàn toàn. Thủ tướng đang trình bày trong cuộc thảo luận vòng đầu về một dự luật do Phó thủ tướng Tun Abdul Razak đề xuất để thông qua Dự thảo Tu chính án Singapore 1965 ngay lập tức. Lúc 1 giờ 30 phút, cuộc thảo luận vòng hai và ba đã kết thúc và dự thảo được chuyển qua Thượng viện. Thượng viện khởi sự thảo luận vòng đầu lúc 2 giờ 30 và kết thúc thảo luận vòng ba lúc 4 giờ 30 cùng ngày. Chủ tịch nước, quốc vương Yang di–Pertuan Agong phê chuẩn dự luật cũng trong ngày hôm đó, kết thúc các thủ tục hiến định. Singapore được tách ra.
Theo phong tục Hồi giáo Malaysia, người chồng, chứ không phải người vợ, có thể tuyên bố “Talak” (Tôi li dị bà) và thế là người phụ nữ bị li dị. Họ có thể hòa giải và người chồng có thể tái hôn người vợ, nhưng không thể làm thế sau khi người chồng nói “Talak” ba lần. Ba vòng thảo luận tại lưỡng viện quốc hội chính là ba lần tuyên bố talak, qua đó Malaysia li dị Singapore. Dân chúng, người Malay chiếm đa số ở Malaysia và người Hoa đa số ở Singapore, đã không thể tồn tại hòa hợp. Sự kết hợp của họ bị cản trở vì sự bất đồng ngày càng tăng về vấn đề Liên bang Malaysia mới thành lập phải là một xã hội đa chủng tộc hay là một nước do người Malay thống trị.
Singapore lựa chọn hình thức li dị, chứ không phải các thủ tục pháp lý của vấn đề đó. Nếu mà phải li dị, thì tôi muốn bảo đảm rằng các điều khoản phải thực tế, khả thi và dứt khoát. Để chắc chắn rằng tuyệt đối không còn chút hồ nghi nào về tính chất dứt khoát của nó, chính phủ Singapore đã cho đăng hai lời tuyên bố đó trên tờ công báo đặc biệt phát hành sáng hôm đó. Tôi đã hỏi xin – và Thủ tướng Malaysia đã chấp thuận – văn bản tuyên bố của ông có kèm chữ ký để bảo đảm không có chuyện lật ngược vấn đề, cho dù các nhà lãnh đạo khác hay đại biểu quốc hội Malaysia có bất đồng với bản tuyên bố này. P.S. Raman, Giám đốc đài phát thanh và truyền hình Singapore đã nhận được các văn kiện này từ tay thư ký Văn phòng chính phủ. Ông ta quyết định cho đọc lại toàn văn, bằng tiếng Malay, Quan thoại và tiếng Anh, trên ba làn sóng riêng cho từng thứ ngôn ngữ và cứ nửa giờ thì lặp lại một lần. Chỉ vài phút sau, các hãng thông tấn đã chuyển tin này đi khắp thế giới.
Tôi đã khởi đầu công việc ngày hôm đó, thứ Hai ngày 9/8, bằng một loạt những buổi họp với các công chức cao cấp, nhất là các vị có thẩm quyền cấp liên bang, để thông báo với họ rằng các bộ trưởng Singapore bây giờ sẽ nắm quyền kiểm soát. Lúc gần 10 giờ, khi bản tuyên bố sắp được phát đi, tôi đi gặp các viên chức thuộc các ngoại giao đoàn tại Singapore mà họ có thể tới dự họp gấp được. Tôi nói với họ về việc chia tách và nền độc lập của Singapore, và đề nghị chính quyền của họ công nhận.
Khi các nhà ngoại giao ra về, tôi mời vị phụ tá cao ủy Ấn Độ và tổng lãnh sự Ai Cập nán lại và đưa cho họ lá thư gởi Thủ tướng Shastri và Tổng thống Nasser. Ấn Độ và Ai Cập hồi đó, cùng với Indonesia, là những nước lãnh đạo phong trào Á Phi. Trong những thư ấy, tôi yêu cầu họ công nhận và ủng hộ. Với Ấn Độ, tôi yêu cầu giúp đỡ cố vấn để huấn luyện quân đội, và với Ai Cập, tôi xin một cố vấn để xây dựng lực lượng phòng vệ duyên hải.
Gần trưa, tôi đến Đài phát thanh và truyền hình Singapore để mở cuộc họp báo. Cuộc họp này có một kết quả bất ngờ ngoài dự kiến. Sau một vài câu hỏi và trả lời mở đầu, một phóng viên đã hỏi: “Ông có thể sơ lược cho chúng tôi về chuỗi sự kiện đã dẫn tới bản tuyên bố sáng nay không?”
Tôi đã kể lại những cuộc họp với Thủ tướng Malaysia tại Kuala Lumpur trong hai ngày trước đó:
“Nhưng Thủ tướng Malaysia nói rất đơn giản rằng không có cách nào khác, và sẽ có rất nhiều rắc rối nếu chúng ta cứ nhất định tiếp tục thế này. Và tôi muốn nói thêm – Ngài thấy đó, đây là một thời điểm để – mỗi khi chúng tôi nhìn lại thời điểm ấy khi chúng tôi ký thỏa ước, vốn có lợi cho cả Malaysia lẫn Singapore, đó sẽ là một thời điểm đầy băn khoăn vì cả đời mình tôi đã tin tưởng vào sự hội nhập và thống nhất của hai miền lãnh thổ này. Đó là một dân tộc được nối kết nhau về địa lý, kinh tế và những mối dây thân thuộc… Các vị có phiền không nếu chúng ta ngưng một lát?”
Vào lúc đó, những xúc cảm dâng trào trong tôi và phải hai mươi phút sau tôi mới có thể lấy lại bình tĩnh và tiếp tục cuộc họp báo.
Đó không phải buổi truyền hình trực tiếp, vì đài chỉ phát sóng từ 6 giờ tối. Tôi yêu cầu P.S. Raman cắt bỏ đoạn tôi bị xúc động. Ông ta đã tích cực khuyên tôi đừng làm thế. Ông ta nói báo chí chắc chắn sẽ tường thuật sự kiện đó, và nếu ông cắt bỏ thì những tường thuật của họ sẽ khiến sự kiện có vẻ tồi tệ hơn. Tôi nhận ra Raman, một trí thức người Tamil sinh ở Madras và là một công dân Singapore trung thành, quả là một cố vấn khôn ngoan. Tôi đã theo lời khuyên của ông ta. Và do đó, nhiều người ở Singapore và nước ngoài đã thấy cảnh tôi không kiềm chế được xúc cảm của mình. Tối hôm đó, Đài phát thanh và truyền hình Malaysia ở Kuala Lumpur phát hình cuộc họp báo, có cả đoạn phim ấy. Với người Hoa, lộ ra sự kém cứng cỏi là một việc không nên. Nhưng tôi đã không kềm mình được. Có điều cũng an ủi là nhiều khán giả ở Anh, Úc và New Zealand đã nảy sinh thiện cảm với tôi và Singapore. Họ đang quan tâm tới Malaysia vì quân đội của họ đang bảo vệ liên bang này chống lại lực lượng “Đối đầu”, một mỹ từ mà Tổng thống Sukarno của Indonesia dùng để gọi cuộc chiến không tuyên bố và quy mô nhỏ của ông ta nhằm chống lại cái Liên bang “thực dân mới” đang bành trướng này.
Tôi đã bị quá căng thẳng về mặt tình cảm, đã trải qua ba ngày đêm trăn trở khổ sở. Thiếu ngủ mãi từ tối thứ Sáu tại Kuala Lumpur, thể lực của tôi hầu như kiệt quệ. Tôi bị đè nặng bởi một mặc cảm phạm tội. Tôi thấy mình đã làm thất vọng hàng triệu người ở Malaysia: những kiều dân Ân, Hoa, Á–Âu và thậm chí cả một số người Malay nữa. Tôi đã khơi dậy hy vọng cho họ, và họ đã đứng cùng dân Singapore để chống lại quyền lãnh đạo của người Malay, nguồn gốc cuộc tranh đấu của chúng tôi. Tôi thấy xấu hổ vì đã để mặc các đồng minh và người ủng hộ chúng tôi phải tự thân vận động, trong đó có cả các lãnh tụ đảng phái tại nhiều tiểu bang của Malaysia như Sabah, Sarawak, Perak, Selangor và Negeri Sembilan. Chúng tôi đã cùng nhau thành lập Minh ước Đoàn kết Malaysia để tập trung và phối hợp các hoạt động của chúng tôi nhằm huy động nhân dân đấu tranh cho một xã hội phi sắc tộc. Chúng tôi đã khởi sự xây dựng một liên minh có thể đòi hỏi chính quyền Liên hiệp ở Kuala Lumpur phải tạo một nước Malaysia cho người Malaysia, chứ không phải riêng cho người Malay – một công việc không dễ dàng gì, bởi vì chính phủ Liên hiệp đương quyền đang nằm dưới sự không chế của đảng UMNO (United Malays National Organization – Tổ chức quốc gia thống nhất người Malay) của Thủ tướng Malaysia.
Tôi cũng cảm thấy ray rứt và ân hận vì đã giấu diếm các thủ tướng Anh, Úc và New Zealand. Trong ba tuần qua, trong khi họ dành một sự ủng hộ lặng lẽ và mạnh mẽ cho tôi và Singapore để tìm một giải pháp hòa bình cho các vấn đề sắc tộc của Malaysia, thì tôi đã bí mật thương thảo về việc chia tách.
Những ý nghĩ này đã giày vò tôi trong suốt ba tuần lễ đàm phán với Razak, Phó Thủ tướng Malaysia. Khi mà cuộc đấu tranh ý chí ấy còn tiếp tục thì tôi còn giữ được bình tĩnh. Nhưng khi công việc đã xong thì cảm xúc lại hoàn toàn chế ngự tôi.
Trong khi tôi xúc động như thế thì các thương gia tại Chinatown (Phố Tàu) của Singapore lại quá đỗi vui mừng. Họ đốt pháo chào mừng việc được thoát khỏi nền cai trị sắc tộc của người Malay ở Kulua Lumpur và rải giấy hoa đỏ rực các đường phố. Tờ báo tiếng Hoa Sin Chew Jit Poh tường thuật rằng dân chúng đốt pháo để đánh dấu ngày trọng đại này và viết theo lối bóng gió tiêu biểu của người Hoa: “Có lẽ rằng họ đã tiến hành sớm lễ cúng Cô hồn.” Tờ báo cũng thêm một đoạn khó hiểu: “Trong tâm can mỗi người là lời cầu nguyện của riêng mình.” Còn tờ Nanyang Siang Pau viết: “Trái tim có thể hiểu mà không cần nói ra.”
Soon Peng Yam, Chủ tịch Phòng thương mại Hoa kiều Singapore, công khai chào mừng việc Singapore tách khỏi Malaysia. Ủy ban của ông ta sẽ họp vào ngày hôm sau để thảo luận việc bảo trợ một buổi lễ mừng nền độc lập của hòn đảo này chung cho tất cả các nghiệp đoàn, hiệp hội, phường hội và các tổ chức dân sự. Ông ta nói: “Giới doanh nghiệp nói chung cảm thấy rất nhẹ nhõm trước những biến chuyển chính trị gần đây.”
Các nhà đầu tư cũng không cảm thấy nỗi băn khoăn của tôi. Việc chia tách đã làm bột phát hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngay ngày hôm đó, các phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán Singapore–Malaysia (chưa đổi tên kịp) tại Singapore và Kuala Lumpur đã ghi nhận một mức tăng gấp đôi khối lượng giao dịch so với những ngày hoạt động mạnh nhất của tuần trước. Ngày kế đó, các nhà đầu tư đã xác định độc lập là thuận lợi cho kinh tế và vốn đã luân chuyển mạnh hơn nữa. Giá của 25 trong số 27 chứng khoán công nghiệp đã tăng mạnh. Tại trung tâm thành phố, ngược lại, đường phố vắng hoe vào buổi chiều ngày 9/8. Tối hôm trước, tôi đã thông báo cho John Le Cain, quận trưởng cảnh sát Singapore, về bản tuyên bố sắp tới, và đã đưa cho ông ta một lá thư của Ismail bin Dato Abdul Rahman, Bộ trưởng nội vụ liên bang, yêu cầu ông từ đây nhận lệnh từ chính phủ Singapore. Le Cain đã triển khai các đơn vị cảnh sát dự bị, các lực lượng bán quân sự chuyên đối phó với bạo loạn, đề phòng trường hợp những người Malay ủng hộ đảng UMNO tại Singapore gây loạn để chống đối việc chia tách. Dân chúng đã mau chóng cảm nhận được nguy hiểm nhờ vào kinh nghiệm từ hai vụ bạo động của người Hoa và Malay vào năm trước, 1964. Sự có mặt của các lực lượng chống bạo động với những xe chuyên dụng, trang bị vòi rồng và có lưới sắt bảo vệ cửa kính để chống tạc đạn, lại càng nhắc nhở người ta cẩn thận. Nhiều người dân đã quyết định rời sở về nhà sớm hơn thường lệ.
Hôm đó trời nóng và ẩm, kiểu thời tiết tiêu biểu của tháng 8. Lúc chiều tối, trời dịu đi và tôi rất mệt mỏi. Nhưng tôi quyết tâm giữ nề nếp vận động hàng ngày để giảm căng thẳng. Tôi bỏ ra hơn một giờ để quật 150 phát banh gôn trong bãi tập trước Sri Temasek, tòa nhà lưu trú chính thức của tôi thuộc khuôn viên Istana (trước đây là Dinh chính phủ). Việc này khiến tôi thấy khỏe hơn và ăn tối ngon miệng hơn trước khi gặp gỡ ngài Head, Cao ủy Anh tại Kuala Lumpur.
Thư ký của tôi đã nhận được điện thoại gọi từ văn phòng ngài Antony Head vào 9 giờ 30 sáng hôm đó, và bởi vì lúc ấy là chỉ có 30 phút trước khi đưa ra bản tuyên bố nên thư ký của tôi báo rằng tôi rất bận. Head đã hỏi là có thể gặp tôi vào chiều tối được không. Tôi đã gửi điện sang đó đề nghị gặp lúc 8 giờ. Rồi chúng tôi nhất trí gặp gỡ lúc 7 giờ 50.
Vào giờ đó, ông ta tới Sri Temasek (vì lý do an ninh tôi đã không về nhà riêng ở đường Oxley) và thấy Wei Ling, con gái 10 tuổi của tôi trong bộ áo thun quần short đang chơi ở ngưỡng cửa.
Ông muốn gặp ba cháu hả? – nó hỏi ngài Head.
Đó quả là một lời chào không kiểu cách nhưng thích hợp, vì cùng với nền độc lập, những quan hệ của tôi với ông ta đột nhiên trở nên mơ hồ hơn. Tôi bước ra đúng lúc để chào đón khi ông ta bước ra khỏi xe, và tôi hỏi: “Ông sẽ nói chuyện nhân danh ai đây?”
Ồ, dĩ nhiên – ông ta đáp – ông biết đó, tôi được cử làm đại diện tại một chính phủ nước ngoài.
Chính xác là thế. Ông có được giao thẩm quyền để nói chuyện với tôi về quan hệ của Singapore với nước Anh không?
Không.
Vậy đây là cuộc gặp hai người, chỉ nói chuyện phiếm thôi.
Nếu ông muốn nó như thế.
Và nó đã như thế.
Khi mô tả cuộc gặp gỡ này cho một nhóm các phóng viên Anh và Úc vào cuối tháng đó, tôi đã cố gắng tạo ấn tượng ấy là cuộc chạm trán của hai đối thủ. Sự thực, suốt thời gian đó lòng tôi nặng trĩu. Thái độ của Head khiến tôi có ấn tượng. Cung cách của ông xứng đáng với một sỹ quan Vệ binh xuất thân từ trường Võ bị Sandhurst. Ông từng là Bộ trưởng quốc phòng hồi liên quân Anh–Pháp chiếm đóng kênh Suez năm 1956, và từ chức cùng lúc với Anthony Eden1, chấp nhận trách nhiệm cho vụ triệt thoái. Ông thuộc giới thượng lưu Anh, rất giỏi việc giữ bình thản trong mọi tình huống.
Ông ta đã cố hết sức để ngăn cản việc chia tách này. Ông đã tận lực để thuyết phục Thủ tướng Malaysia và chính phủ liên bang theo các chính sách có thể xây dựng sự thống nhất tại Malaysia. Cả ông ta, và Cao ủy Anh làm việc trực tiếp với Thủ tướng Malaysia và các bộ trưởng, cũng như Thủ tướng Anh Harold Wilson tại London đã dành cho tôi sự ủng hộ vô hạn để tìm một giải pháp hợp hiến cho cuộc tranh chấp giữa Singapore và Kuala Lumpur. Họ đã kiên định, một cách thành công, rằng tuyệt không nên dùng vũ lực. Nếu họ không làm thế thì hẳn kết quả đã đổi khác. Nhưng chia tách chắc chắn không phải giải pháp mà họ lao tâm khổ trí để tìm kiếm.
Nhưng bất kể sự có mặt của khoảng 63.000 lính Anh, hai hàng không mẫu hạm, 80 chiến hạm và 20 phi đội tại Đông Nam Á để phòng vệ Liên bang, ông ta cũng không thể chống lại sức mạnh của tinh thần sắc tộc Malay. Các lãnh tụ Malay, kể cả Thủ tướng Malaysia, e rằng nếu chia sẻ quyền lực chính trị với các sắc tộc khác, thì người Malay sẽ bị nuốt gọn. Đó chính là mấu chốt của vấn đề. Ông Head đã không hiểu điều này. Chính tôi ban đầu cũng không hiểu, nhưng tôi đã dần hiểu ra trước ông ấy vì tôi đã có nhiều thời gian tiếp xúc hơn với Tunku, Razak và Ismail. Và tôi nói được tiếng Malay, còn Head thì không. Tôi còn nhớ được những sự kiện biểu hiện sự rạn nứt và thù nghịch giữa người Malay và các sắc tộc khác trong quá khứ của tôi, nhất là những ngày học đại học Raffles vào năm 1940 và 1941. Tôi hiểu người Malay rõ hơn. Nên vào cuối tháng 6/1965, tôi đọc được tin rằng Thủ tướng Tunku ngã bệnh herpes (mụn rộp do vi khuẩn) tại London, tôi đã e rằng ông sẽ không chịu nổi nữa.
Head và tôi gặp gỡ trong khoảng một tiếng, và tôi đã cố trình bày rõ mọi chuyện cho ông. Nhưng làm sao tôi giải thích với ông được rằng, sau cuộc gặp gỡ tay đôi giữa tôi và Razak ngày 29/6 tại văn phòng của ông ấy tại Kuala Lumpur, tôi đã thấy chẳng còn hy vọng gì mấy về một giải pháp hòa bình cho các vấn đề của chúng tôi? Head và tôi đều tự kiềm chế trong cuộc trao đổi. Ông ta không đưa ra lời trách cứ nào, mà chỉ tỏ ra rất tiếc là tôi đã không thông báo kịp thời cho ông ta và chính phủ Anh về những diễn biến, về phần mình, tôi cảm thấy rất buồn vì phải giấu kín với ông ta về những diễn biến trong ba tuần trước khi kết thúc bằng việc chia tách. Tôi nghĩ ông trông cũng buồn bã vậy. Nhưng nếu tôi nói với Head rằng Tunku muốn chúng tôi tách khỏi Malaysia, mặc dù điều tôi muốn là một liên bang rộng rãi hơn, thì chắc hẳn ông ta đã tìm được cách ngăn chặn Tunku vì việc Singapore tách riêng và độc lập là đi ngược lại quyền lợi của Anh. Rồi những bạo loạn sắc tộc có thể đã phải được tính tới. Mười bảy giờ sau cuộc gặp gỡ, chính phủ Anh đã công nhận Singapore độc lập.
Sau khi Head ra về, tôi đã có rất nhiều thảo luận qua điện thoại với các đồng sự trong nội các để trao đổi ý kiến về việc tình hình đã ra sao và kiểm điểm lại các diễn biến. E ngại một sự rạn nứt sâu xa trong nội các và trong những đại biểu quốc hội, tôi đã yêu cầu từng Bộ trưởng ký vào Thỏa ước chia tách ngay vì tôi biết rằng một số người sẽ kịch liệt chống đối.
Nhưng tôi phải tiếp tục với việc điều hành đất nước Singapore mới mẻ này. Gần như suốt ngày hôm đó tôi làm việc với cộng sự thân tín là Goh Keng Swee, chúng tôi phải giải quyết các vấn đề an ninh và quốc phòng. Tôi đã quyết định sáp nhập Bộ Nội vụ với Bộ Quốc phòng và giao cho ông ta phụ trách. Nhưng rồi ai sẽ thay ông ta làm Bộ trưởng tài chính? Chúng tôi nhất trí chọn Lim Kim San. Vấn đề kế tiếp là sự công nhận quốc tế và những quan hệ tốt đẹp với những nước có thể hỗ trợ giữ gìn an ninh và sinh tồn cho Singapore. Chúng tôi đã nhất trí rằng S. Rajaratnam, thành viên sáng lập của đảng PAP (People’s Action Party – Đảng hành động nhân dân) của chúng tôi, sẽ đảm trách Bộ Ngoại giao. Chúng tôi vẫn trong tình trạng rối loạn, chưa thích nghi với thực tế mới mẻ và lo sợ những bất trắc ở phía trước.
Chúng tôi đối mặt với một tương lai u ám. Singapore và Malaysia, nối với nhau bằng một con đường đắp băng qua eo Johor, vốn đã do người Anh cai trị như một lãnh thổ thống nhất. Malaya là nội địa của Singapore, cũng như của Sarawak, Brunei và Sabah trên đảo Borneo vậy. Tất cả là bộ phận của Đế quốc Anh tại Đông Nam Á, với Singapore đóng vai trung tâm hành chính và thương mại. Bây giờ chúng tôi phải đứng một mình, còn chính phủ Malaysia lại muốn dạy chúng tôi một bài học vì đã cứng đầu, đã không chịu tuân theo các tiêu chuẩn và tập quán của họ và thích nghi với cơ cấu của họ. Chúng tôi có thể chờ đợi họ loại chúng tôi khỏi vị trí cửa ngõ xuất nhập khẩu hàng hóa và nguồn cung cấp nhiều dịch vụ khác. Trong một thế giới đầy những quốc gia mới, mọi nước đều theo đuổi các chính sách kinh tế quốc gia, ai cũng muốn tự mình làm lấy mọi thứ và trực tiếp làm việc với những khách mua khách bán ở châu Âu, Bắc Mỹ hay Nhật Bản, làm sao Singapore đứng vững khi không có nội địa phía sau? Như thế, làm sao chúng tôi sống được? Ngay cả nguồn nước sinh hoạt của chúng tôi cũng đến từ bang Johor của Malaysia. Tôi còn nhớ rất rõ người Nhật đã chiếm những hồ dự trữ nước ở đó vào đầu tháng 2/1942 như thế nào, rồi nhờ đó tiêu diệt lực lượng phòng thủ Anh ra sao, tuy rằng lúc đó vẫn còn nước trong các hồ chứa tại Singapore.
Một số quốc gia được độc lập từ khi lập quốc, một số khác phải giành mới được. Singapore thì bị bắt phải độc lập. Khoảng 45 cựu thuộc địa của Anh đã tổ chức trọng thể các buổi lễ để chính thức hóa và chào mừng việc chuyển giao quyền lực từ người Anh sang chính quyền bản xứ. Còn Singapore, ngày 9/8/1965 chẳng là dịp lễ nghi gì cả. Chúng tôi chẳng hề mưu cầu độc lập. Trong một cuộc trưng cầu dân ý ba năm trước đó, chúng tôi đã thuyết phục 70% cử tri đoàn bỏ phiếu tán thành sáp nhập với Malaya. Kể từ đó, nhu cầu của Singapore muốn trở thành một phần của Liên bang trong một chính thể chính trị, kinh tế và xã hội đã không hề thay đổi. Đã không có gì thay đổi – chỉ có điều chúng tôi bị loại ra ngoài. Chúng tôi đã nói rằng một Singapore độc lập là không thể đứng vững. Bây giờ nhiệm vụ chẳng ai muốn của chúng tôi là làm cho Singapore sống được. Làm sao chúng tôi xây dựng được một quốc gia từ một tập hợp đa ngôn ngữ gồm các kiều dân từ Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia và nhiều nước châu Á khác?
Singapore là một hòn đảo với diện tích 214 dặm vuông lúc triều thấp. Nó phát triển vì nó là trung tâm của Đế quốc Anh tại Đông Nam Á, sau chia tách, nó trở thành một trái tim mà không có thân thể. 75% của số dân 2 triệu người ở đây là người Hoa, một thiểu số nhỏ xíu trong một quần đảo có tới 30.000 đảo với cư dân gồm hơn 100 triệu người Malay hoặc người Indonesia Hồi giáo. Chúng tôi là một hòn đảo người Hoa giữa một biển người Malay. Làm sao chúng tôi tồn tại được trong một môi trường thù địch như thế?
Tình trạng thù địch là quá rõ ràng: Để gây thêm khó khăn, người Indonesia còn tiến hành phong trào “Đối đầu” chống lại Malaysia khi Liên bang này hình thành vào tháng 9/1963, đó là một cuộc chiến cấp thấp bao gồm sự tẩy chay kinh tế, những hành động khủng bố do những biệt kích xâm nhập vào Singapore để đánh bom và những tấn công quân sự bằng cách nhảy dù vào Johor. Người Hoa ở Malaya và Singapore biết rằng chính quyền Indonesia cũng chèn ép ngay cả ba triệu Hoa kiều sống trên đất Indonesia.
Trong khi đó, không những hoạt động nhập và tái xuất vốn là chỗ dựa của Singapore từ khi được thành lập năm 1819, phải đối mặt với một tương lai bất trắc, mà ngay vị trí chiến lược của nó đối với người Anh trong việc kiểm soát khu vực này của đế quốc cũng biến mất khi Đế quốc Anh tan rã. Nền kinh tế của Singapore sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi sự hiện diện của người Anh đột ngột cắt giảm. Chi phí quân sự của Anh tại Singapore đem lại đến 20% GDP, quân đội này tạo công ăn việc làm trực tiếp cho 30.000 công nhân và công việc gián tiếp cho 10.000 nhân công nữa, chưa kể những người cung ứng cho họ những dịch vụ khác. Quân đội Anh đã tạo công ăn việc làm cho hơn 10% lực lượng lao động vào thời điểm mức tăng dân số 2,5% mỗi năm đang gây áp lực lớn với chính phủ về vấn đề nhân dụng cũng như giáo dục, y tế và nhà ở.
Nhưng trong lúc này, tôi thấy an tâm và nhẹ nhõm là chúng tôi đã trải qua ngày hôm đó mà không gặp rối loạn gì. Quá nửa đêm tôi mới lên giường, mệt mỏi nhưng không buồn ngủ. Mãi đến 2 hay 3 giờ sáng tôi mới kiệt sức ngủ thiếp đi, thỉnh thoảng vẫn giật mình không an giấc khi tiềm thức của tôi vật vã với các ưu tư. Làm sao tôi giải quyết được chúng? Tại sao chúng tôi lại đi tới chỗ đáng tiếc này? Phải chăng đây là kết quả sau cùng của 40 năm học tập, làm việc và đấu tranh? Tương lai sẽ có gì cho Singapore? Tôi sẽ dành 40 năm kế tiếp để tìm cho ra câu trả lời cho các câu hỏi hóc búa ấy.
Xin cảm ơn bạn đã đọc hết bài
Leave a Comment