Sách Madam Nhu Trần Lệ Xuân – Quyền Lực Bà Rồng
Tác giả : Monique Brinson Demery
Tải sách Miễn Phí
Nội dung sách Madam Nhu Trần Lệ Xuân – Quyền Lực Bà Rồng
Chương 1
PARIS, 2005
Vào thời điểm tôi bắt đầu tìm hiểu bà Ngô Đình Nhu thì bà đã sống lưu vong hơn bốn chục năm rồi. Năm 1963, ở đỉnh cao danh vọng của bà, tờ New York Times gọi vị Đệ nhất Phu nhân miền Nam Việt Nam ba mươi chín tuổi này là người đàn bà “quyền lực nhất” ở châu Á và so sánh bà với Lucrezia Borgia. Nhưng chính cái tiếng tăm Rồng Cái của bà đã mang đến cho bà sự khác biệt đích thực. Khi các nhà sư tự thiêu trên đường phố Sài Gòn, phản ứng của bà Nhu là tàn bạo không thể tả: “Cứ để họ tự thiêu, rồi chúng ta sẽ vỗ tay”, bà mỉm cười nói. “Nếu các Phật tử muốn có thêm một cuộc nướng thịt, tôi sẽ hân hoan cung cấp dầu xăng và một que diêm”. Vẻ đẹp nguy hiểm, với đôi mắt đen nhanh chóng trở thành biểu tượng của mọi sai lầm cho sự can dự của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam.
Bà Nhu biến dần khỏi đời sống công cộng sau tháng Mười Một năm 1963, khi chồng bà, Ngô Đình Nhu, và anh chồng bà, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, bị giết chết trong một cuộc đảo chính được chính quyền Mỹ bật đèn xanh ủng hộ. Như Tổng thống John F. Kennedy giải thích với người bạn thân của ông, Paul “Red” Fay, Hoa Kỳ phải loại trừ anh em họ Ngô một phần vì bà Nhu. “Con chó cái đó”, ông nói với bạn, “nó gây ra hết… Con chó cái đó chĩa mũi vào và làm mọi thứ ở đó sôi sục lên hết”.
Đã có nhiều cuốn sách mổ xẻ biến cố tháng Mười Một năm 1963 và coi sự lật đổ anh em họ Ngô như yếu tố then chốt dẫn đến việc Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng những nghiên cứu lịch sử về vụ đảo chính phần lớn đã không nhìn ra vai trò của bà Nhu. Làm thế nào mà một người đàn bà thậm chí chưa tới bốn mươi tuổi – và cao chưa tới một mét sáu với giày cao gót – có thể thu hút sự chú ý hoàn toàn của một siêu cường như Mỹ, và lôi kéo nước Mỹ vào một cuộc xung đột sẽ kéo dài thêm một thập kỷ và lấy đi mạng sống của hàng triệu người?
Tôi đã ở Paris để tìm hiểu – mặc dù, tôi phải thừa nhận, tôi hơi lo lắng. Phóng viên hãng tin AP (Associated Press) Malcolm Browne, từng được giải Pulitzer, viết trong hồi ký của ông rằng, từ “kinh nghiệm cá nhân” ông biết bà Nhu “có thể là kẻ thù nguy hiểm nhất mà một người có thể gặp”. Và đó chính là điều gây tò mò. Rồng Cái là hình ảnh tưởng tượng kiểu Tây phương về một người Đông phương – dâm dục, suy đồi, và nguy hiểm. Cái khuôn mẫu độc ác này đã đúc ra những người đàn bà châu Á quyền lực trước bà Nhu, như bà Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch và Từ Hi Thái Hậu. Vụ án phản quốc Tokyo Rose, giọng nói nữ của chương trình phát thanh tuyên truyền Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai, vẫn còn in đậm trong ký ức chung ở Mỹ khi bà Nhu buộc tội những người Mỹ ở Việt Nam đã hành động như “những tên lính đánh thuê”. Hậu quả là hình ảnh Rồng Cái mà công chúng thấy ở bà Nhu là một chiều, như một tên vô lại ria xoắn trong một kịch bản Hollywood tồi, mà như vậy thì hơi quá dễ dãi.
Mặc cho bạn nghĩ gì về bà, bà Nhu đã trực tiếp thò tay nhào nặn lịch sử. Nhưng bà đã im lặng trong mấy chục năm. Dù nổi tiếng là bộc trực, bản thân người đàn bà này đã cho thế giới biết rất ít về mình. Bà Nhu đã đuổi phóng viên New York Times cuối cùng tìm cách tiếp cận bà ra khỏi thềm nhà mình ở Ý vì quá ồn ào. Chuyện đó xảy ra vào năm 1986.
Dù gần hai mươi năm đã trôi qua, không có lý do gì cho thấy tôi sẽ có thêm chút may mắn nào, tôi tự nhủ khi nhìn lên tòa nhà bên kia đường. Cách chỉ vài trăm mét sau lưng tôi, tháp Eiffel vươn cao sừng sững. Tôi cố giữ kín đáo khi đếm các tầng của tòa nhà. “Một bà già gan lì”, tôi nghĩ. Theo những gì mà nhiều người biết, trong đó có những người được gợi là chuyên gia mà tôi đã phỏng vấn, bà Nhu đang sống trong một biệt thự xập xệ tường vôi trắng, đâu đó ở ngoại ô Rome. Đã từng có những đồn đoán về việc bà còn sống hay đã chết.
Nhưng tôi có lý do để tin rằng bà ở đây, giữa Paris.
Việc tôi tìm hiểu bà Nhu bắt đầu đơn thuần vì tò mò. Tôi ra đời năm 1976, khoảng mười bảy tháng sau khi kết thúc chiến tranh [Việt Nam]. Như hầu hết những đứa trẻ lớn lên trong những năm 1980, những hiểu biết đầu tiên của tôi về Việt Nam đến từ phim ảnh; người lớn chắc chắn đã không nói nhiều về nó; nó là một tạp âm của những cánh quạt máy bay trực thăng đập mạnh, những lều tranh bốc cháy, và những cánh rừng nhiệt đới bị bom na-pan tàn phá. Tôi giữ mãi ấn tượng đó cho đến năm thứ hai đại học, khi tôi ghi danh một học kỳ nước ngoài tại Đại học Quốc gia Việt Nam ở Hà Nội, mà tôi nghĩ chỉ học cho vui. Bộ Ngoại giao Mỹ khuyến cáo nên tiêm phòng bệnh thương hàn, uốn ván, và bệnh dại, cũng như mang theo thuốc chống muỗi và i-ốt. Cha tôi sửng sốt: “Cha đã trải qua những năm hai mươi tuổi tìm cách thoát ra khỏi Việt Nam, còn bây giờ thì con tìm cách bước vào đó!”
Đến trước năm 2003 tôi đã lấy được bằng thạc sĩ về châu Á học, đã sống ở Việt Nam hai lần, và nhận được học bổng của Bộ Giáo dục Mỹ, điều đó khiến tôi hết sức tự tin vào các kỹ năng tiếng Việt của mình – miễn là chỉ nói về những chuyện đơn giản, như thực đơn hay thời tiết. Nhưng khi nghĩ đến chuyện tìm một việc làm thực sự, tôi ước gì tôi đã làm nhiều hơn là lấy được chiếc bút CIA tuyệt đẹp tại hội chợ việc làm cho sinh viên.
Thay vì đối mặt với một tương lai bất trắc, tôi tìm thấy sự thoải mái ở nơi tôi luôn có – trong sách vở. Tôi không ngừng trở lại tầng hai Thư viện trung tâm của thành phố Boston, nơi lưu giữ những cuốn sách viết về Việt Nam. Bốn, năm người đàn ông trạc tuổi cha tôi mặc những cái áo choàng lỡ cỡ và những cái quần lùng thùng, thường ngồi quanh những chiếc bàn đặt cạnh các giá sách. Mùi cà phê thiu vương vấn trong không khí chung quanh họ. Thật khó để tôi hòa giải một Việt Nam tôi biết từ năm 2004 – những gương mặt thân thiện, chợ búa nhộn nhịp và những thành phố hiện đại, với một xứ sở – và cuộc chiến – đã chôn vùi quá nhiều cuộc đời. Những người đàn ông này có thể đã là gì nếu không có cuộc chiến tranh ở Việt Nam?
“Cuộc đời đầy tình cờ”, cha tôi thường nói, như một câu thần chú. Ông nói câu đó như để an ủi. Đó là cách ông xoa dịu cảm giác ngây thơ của tôi về bất công, và là cách ông hiểu thế giới này. Cha tôi nhận được lệnh gọi nhập ngũ qua bưu điện vào năm 1966, ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Ông đã được nhận vào học sau đại học và được cấp lương của trợ giảng, nhưng ủy ban quân dịch đã bác đơn xin hoãn nhập ngũ của ông. Các thông số của cha tôi gần như bảo đảm ông vào bộ binh ở Việt Nam, nên giống như nhiều người cùng chung hoàn cảnh, ông nộp đơn vào trường Sĩ quan và được nhập ngũ. Ông gặp nhiều thuận lợi hơn, vì là sĩ quan tình nguyện, so với một anh lính quân dịch đi tuần.
Chỉ vài tuần trước khi đến hạn phải trình diện trại huấn luyện, cha đang xem truyền hình trong phòng khách ở nhà ông bà tôi. Tổng thống Lyndon Johnson xuất hiện trên màn hình và thông báo mở rộng diện hoãn thi hành quân dịch đối với các thầy giáo cao học. Cha nhảy cẫng lên khỏi ghế và ôm chầm lấy bà tôi; nhanh nhẹn và bình tĩnh, ông gọi cho ủy ban quân dịch địa phương, xác nhận hoãn nhập ngũ, rồi lấy quần áo trong các túi xách ra.
Ông bị các sĩ quan tuyển quân, những người nóng lòng muốn đạt chỉ tiêu, và Don bạn ông, trách móc. Don và cha tôi cùng đi đến trường đại học mỗi ngày suốt bốn năm. Họ là láng giềng của nhau trong khu ngoại ô của người lao động ở Seattle, và sống ở nhà cha mẹ mình để tiết kiệm tiền phòng và tiền cơm tháng. Họ từng băn khoăn học vấn của họ sẽ thế nào khi xuất thân từ gia đình nghèo. Don cũng có một chỗ trong chương trình sau đại học. Ông lẽ ra có thể sử dụng quyền hoãn nhập ngũ như cha tôi.
Nhưng Don cho rằng hoãn dịch chẳng để làm gì. Ông thuyết phục cha tôi trở lại đăng ký, “Chỉ để cho xong quách cho rồi”, ông lý luận. Họ sẽ thực hiện một chuyến đi nghĩa vụ ngắn ngủi ở Đông Nam Á trước khi sống phần đời còn lại của mình.
Hai tuần sau khi Don có mặt ở Việt Nam, chiếc máy bay trực thăng chở ông bị bắn rơi và ông thiệt mạng.
Xin cảm ơn bạn đã đọc hết bài
Leave a Comment